Mỗi cuốn sách chỉ có một vài câu then chốt, nhưng không phải vì có câu then chốt mà bạn coi nhẹ các câu khác. Bên cạnh những báo cáo, những con số liên quan đến toán học và thống kê - phần nặng về lý thuyết hơn thực hành - thì những cuốn sách này thường dạy ta cách tổ chức đời sống kinh tế ở nhiều quy mô từ cá nhân đến tập thể hay quốc gia; chỉ cho chúng ta nên hay không nên làm gì và thông tin về những hậu quả tương ứng nếu ta không làm những việc phải làm. Việc phân loại và sắp xếp các cuộc tranh luận này cũng như các vấn đề cốt lõi đưa chúng ta đến bước cuối cùng của cách đọc này.
Dấu hiệu của phong cách này là khi bạn đọc các tác phẩm của Spinoza, bạn có thể bỏ qua rất nhiều giống như cách bạn đọc tác phẩm của Newton. Tất nhiên, ý bạn diễn đạt có thể không giống chính xác ý của tác giả, nhưng nếu bạn cứ sử dụng nguyên từ ngữ của tác giả thì giữa hai bên mới chỉ có sự trao đổi về từ ngữ chứ chưa có sự trao đổi về tư tưởng hay tri thức. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra vẫn là liệu có thể viết một tác phẩm triết học hay theo kiểu toán học như Spinoza từng làm hay viết một công trình khoa học theo kiểu đối thoại như Galileo đã cố thử không? Sự thật cho thấy, về phương diện nào đó, cả hai người đều đã thất bại trong việc truyền đạt những gì họ muốn truyền đạt và dường như chính hình thức họ chọn là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại.
Hơn thế, nó gắn kết giai đoạn đầu của quá trình đọc phân tích (vạch ra cấu trúc sách) và giai đoạn thứ hai (làm sáng tỏ nội dung). Cuối cùng, Aquinas đưa ra câu trả lời hay giải pháp của riêng ông. Ít nhất nó là một bản ghi chép kể lại cuộc đời, lịch sử của một người hay một nhóm người.
Nhưng trên thực tế, phương pháp được minh họa trong phần bàn về đọc phân tích và đọc cùng chủ đề không áp dụng được với tất cả các loại sách. Điều quan trọng trong đọc đồng chủ đề là phải nhận thức được điểm khác biệt giữa những cuốn sách bạn đọc lần đầu với các sách đọc lần thứ hai. Kiểu độc giả thứ hai không đặt câu hỏi và không có câu trả lời.
Ta có thể mô tả việc hiểu một cuốn sách là sự đồng tình giữa người viết và người đọc về cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt ý kiến. Ở khả năng thứ nhất, mỗi từ đại diện cho một thuật ngữ. Nhưng ngay cả khi tác giả không thảo luận về câu hỏi một cách rõ ràng, đôi khi, ta vẫn tìm được câu trả lời dù là gián tiếp trong tác phẩm.
Chúng tôi xin tóm tắt lại hai gợi ý về cách đọc sách lịch sử như sau. Cho dù có khó đến đâu, mọi cuốn sách đều có những khe hở để chúng ta có thể và rất nên đọc nhanh. Sẽ không tránh khỏi những bất đồng muôn thuở về các khái niệm nhất định, nhưng ngay khi nhận thức được chúng, chúng tôi có thể tìm ra hướng giải quyết.
Nếu lời giới thiệu chỉ là lời khoe khoang về cuốn sách thì bạn chỉ cần liếc qua cũng nhận thấy. Anh ta đọc rất chủ động với sự nỗ lực lớn. Điều này cũng chưa hoàn toàn xác đáng vì xét một cách chặt chẽ thì không có từ nào là hoàn toàn rõ nghĩa.
Đây là hình thức đọc phức tạp nhất và có hệ thống nhất trong tất cả các cấp độ. Trong quá trình đọc kiểm soát, đặc biệt là với một cuốn sách dài và khó, bạn có thể hiểu thấu đáo ý kiến của tác giả về chủ đề mà họ nêu ra. Khi chúng ta tuân theo và áp dụng các quy tắc này vào bất cứ cuốn sách nào, ta có thể trả lời các câu hỏi Cuốn sách nói về cái gì? và Cuốn sách nói về vấn đề đó như thế nào?.
Những đánh giá về tính chân thực của một tiểu thuyết hầu như dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm chung kinh nghiệm sống của rất nhiều người. Nhưng sức mạnh khiến ta tiếp tục hành động từ những kích thích ấy lại rất hạn chế. Khi có sự bất đồng với tác giả, bạn cần có đủ ba điều kiện dưới đây để lập luận cho sự bất đồng của mình.
Đa số các triết gia chuyên nghiệp ngày nay không còn tin rằng họ có thể trả lời các câu hỏi hạng nhất. Lịch sử của một từ có chứa các thông tin về quá trình biến đổi vật chất, cách viết và cách phát âm; nêu lên các nghĩa chuyển; phân biệt nghĩa cổ; ít hoặc không sử dụng nữa với nghĩa hiện đại, thông dụng; phân biệt thành ngữ, từ thông tục hoặc tiếng lóng. Nhưng đối với thơ ca thì không như vậy.