Đứng trước số lượng sách tham khảo lớn, chúng ta làm thế nào để khẳng định được chủ đề này đúng là chủ đề ta đang nghiên cứu? Ví dụ, một người nói Tôi thích ăn phó mát, người khác nói Tôi thích bóng đá, người thứ ba lại bảo Tôi yêu nhân loại, cả ba người này có dùng từ yêu theo nghĩa chung không? Thật ra, chúng ta chỉ ăn được phó mát chứ không ăn được bóng đá hay nhân loại; chúng ta chơi được bóng đá chứ không chơi được phó mát hay nhân loại; và dù câu Tôi yêu nhân loại mang nghĩa gì thì nghĩa đó cũng không áp dụng được cho phó mát hay bóng đá. Trong cùng một cuốn sách có thể thấy cả nguyên tắc và quy tắc. Thứ hai, nếu lời bình luận đưa ra là đúng thì cũng chưa chắc đã thấu đáo (tức là bạn có thể phát hiện ra những ý nghĩa quan trọng trong một cuốn sách mà một bình luận gia chưa phát hiện thấy).
Thậm chí khi bạn thuần thục kỹ năng này, không phải cuốn sách nào bạn cũng cố gắng đọc. Suốt thế kỷ XIX, tại châu Mỹ, người ta chủ yếu dùng phương pháp ABC để dạy học đọc. Thứ ba, ngay cả khi các nhân vật có hẳn một bài diễn thuyết, ví dụ như Settembrini nói về sự tiến bộ trong cuốn Magic Moutain (Ngọn núi kỳ diệu) của Thomas Mann, chúng ta cũng không thể chắc rằng đó cũng chính là quan điểm của tác giả.
Nhưng sự bất đồng quan điểm lại tạo ra điều ngược lại với suy đoán - rằng không ý kiến nào mâu thuẫn với nhau lại có thể hoàn toàn đúng, dù nó có được ai tán thành hay không. Đọc những cuốn sách này sẽ không quá khó khăn nếu bạn luôn tâm niệm rằng mục đích chủ yếu không phải để trở thành chuyên gia mà chỉ là hiểu vấn đề. Đến đây, chúng tôi đã hoàn thành phần bàn luận về cấp độ đọc thứ hai - đọc kiểm soát.
Từ này có gốc từ tiếng Hy Lạp nghĩa là ý kiến đúng. Đọc tốt, hay đọc tích cực, không chỉ tốt cho bản thân việc đọc, cũng không chỉ là một phương tiện giúp ta tiến bộ trong công việc hay nghề nghiệp. Có một sự thật khiến trí tuệ khác hẳn với cơ thể.
Trong bản tóm tắt đó có tính thống nhất của tác phẩm. Nghệ thuật sử dụng từ điển quan trọng ở chỗ bạn biết nên đặt câu hỏi nào về từ và làm cách nào để tìm ra câu trả lời. Từ thực tế này, chúng tôi muốn bạn nhớ điều quan trọng nhất là đừng cố chống lại những gì mà một tác phẩm giả tưởng tác động lên bạn.
Nói rằng Tôi không hiểu cũng là một cách đưa ra nhận xét. Dù vậy, ta vẫn phải cố tìm hiểu. Giữa chúng không có sự tương ứng 1-1.
Khi viết sách thực hành, tác giả nào không nhận ra điều này thì nội dung sách sẽ không hiệu quả. Ngược lại, sách triết học quy phạm quan tâm chủ yếu đến các mục tiêu mà mọi người nên tìm kiếm như sống tốt hay xây dựng một xã hội tốt. Vì thế, cần cả một đoạn văn, hay ít nhất một tập hợp câu để diễn giải một lập luận.
Do đó, quy tắc 3 không chỉ liên quan đến việc liệt kê các phần trong sách, mà còn bao hàm việc lập dàn ý từng phần, coi đó là những tập hợp con mà mỗi phần lại có tính chỉnh thể và phức tạp riêng. Tác dụng của quá trình đọc ngoài này đơn giản là sự mở rộng giá trị của ngữ cảnh so với việc đọc riêng lẻ một cuốn sách. Tất nhiên, việc áp dụng hai quy tắc đó sẽ khác nhau tùy loại sách bạn đọc.
Khi đọc sách, độc giả phải thống nhất thuật ngữ với tác giả thì mới nắm bắt được ý kiến, nhận định của người viết. Học sinh có thể bắt đầu đồng hoá các kinh nghiệm đọc của mình - tức là mang những khái niệm của một tài liệu này chuyển sang một tài liệu khác, và so sánh quan điểm của các tác giả khác nhau về cùng một chủ đề. Mặc dù vậy, câu chuyện vẫn có một sự thống nhất trong chuỗi hành động và tuyến tư tưởng chính, giúp xâu chuỗi toàn bộ tình tiết lại với nhau.
Đừng phó mặc suy nghĩ của bạn cho nhà bình luận bằng cách đọc nhận xét của họ trước khi đọc cuốn sách. Câu chuyện được Homer kể một cách chau chuốt với những tình tiết phiêu lưu kỳ thú trên đất liền và trên biển, với nhiều chương, hồi cùng sự phức tạp trong cốt truyện. Các bài báo ngắn chủ yếu thường cung cấp thông tin nên bạn không cần phải suy nghĩ nhiều.